Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Vì sao chúng ta cần tìm đường vào siêu thị Nhật?

Cẩn thận là tốt nhưng đôi khi chính sự cẩn thận của DN Nhật đã gây khó khăn nhất định cho DN Việt Nam. Ông Nguyễn Thanh Liêm, Giám đốc Công ty Hưng Gia cho biết, hiện Công ty đang trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan vì sau 8 tháng khảo sát thực tế tại Hưng Gia, phía đối tác Nhật vẫn chưa có động thái nào tiếp theo cho biết họ muốn hợp tác hay không.
Siêu thị tại Tokyo. Ảnh: MT
Trí Tín là công ty đầu tiên của Việt Nam sản xuất được rong nho biển thương phẩm. Từ năm 2006 đến nay, với 5ha mặt nước biển nuôi trồng, đều đặn mỗi năm Trí Tín xuất sang Nhật hơn 20 tấn rong nho, nhưng để có mối làm ăn bền chặt này, Trí Tín phải mất bao công sức.
Người Nhật rất cẩn trọng và đặc biệt quan tâm đến yếu tố chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Trước khi ký hợp đồng mua hàng, đối tác Nhật Bản đã cử người sang giám sát kỹ thuật, rồi kiểm tra quy trình, khảo sát thực tế nuôi trồng, xét nghiệm chất lượng sản phẩm...
Mất 2 năm với những xét nghiệm, kiểm tra như thế, phía đối tác mới chấp nhận lấy hàng của Trí Tín. Từ đó đến nay, đối tác Nhật này vẫn "chung thuỷ” với Trí Tín.
Điều ông Lê Bền, Phó giám đốc Công ty Trí Tín, băn khoăn là làm sao có thể đưa rong nho biển Trí Tín vào hệ thống bán lẻ, siêu thị của Nhật. Lâu nay, dù mối quan hệ rất bền chặt, nhưng sản phẩm Trí Tín không có thương hiệu tại Nhật vì đối tác "đóng lại nhãn mác".
Hàng Trí Tín sang Nhật được tiêu thụ ở những kênh nào, ra sao, ông Bền không hề biết. Cùng với hàng xuất đi Nhật, Trí Tín cũng xuất sang Hàn Quốc, Đài Loan, Úc, Pháp...
Tuy số lượng xuất sang những nước này không bằng Nhật, nhưng bù lại sản phẩm mang thương hiệu Trí Tín. Năm 2012, Trí Tín mở rộng diện tích nuôi trồng và dự kiến vào đầu năm 2014, sản lượng rong nho biển của Công ty sẽ đạt 50 - 70 tấn.
Rất muốn xây dựng được thương hiệu ở Nhật thông qua kênh bán lẻ và siêu thị, nhưng ông Bền sợ làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ lâu dài với đối tác. Bởi vậy, dù cơ hội kinh doanh đang mở ra nhưng ông Bền và Trí Tín vẫn đang loay hoay trong bài toán xuất khẩu.
Không chỉ thận trọng trong việc chọn đối tác, người Nhật cũng rất tỉ mỉ, chi tiết trong việc ký hợp đồng cũng như thực hiện. Việc triển khai dự án Khu Nông nghiệp công nghệ cao (Agropark) của Tổng công ty Công nghiệp Thực phẩm Đồng Nai (Dofico) với một đối tác Nhật đã cho thấy điều đó.
Trong tháng 7/2013, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 1,18 tỷ USD, nâng trị giá xuất khẩu hàng hóa của nước ta sang thị trường này lên 7,49 tỷ USD trong 7 tháng tính từ đầu năm nay, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này là: dệt may, dầu thô, hải sản, phương tiện vận tải và phụ tùng…
Trước khi ký hợp đồng, phía Nhật nghiên cứu rất kỹ từng điều khoản. Trong quá trình triển khai dự án Agropark, phía Nhật yêu cầu cho thị sát dự án. Ra thực địa, họ đối chiếu với bản đồ, xem xét xem dự án có bị vướng giải tỏa hay không, nếu vướng thì có bị ảnh hưởng đến tiến độ thi công hay không...
"Họ kỹ đến mức tìm thêm phiên dịch, mặc dù chúng tôi đã có phiên dịch rồi. Lúc đầu còn trao đổi bằng tiếng Anh nhưng sau đó họ chỉ dùng tiếng Nhật với phiên dịch tiếng Việt của họ để hạn chế nội dung hợp dồng bị hiểu lầm", ông Phùng Khôi Phục, Phó tổng giám đốc Dofico cho biết.
Cẩn thận là tốt nhưng đôi khi chính sự cẩn thận của DN Nhật đã gây khó khăn nhất định cho DN Việt Nam. Ông Nguyễn Thanh Liêm, Giám đốc Công ty Hưng Gia cho biết, hiện Công ty đang trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan vì sau 8 tháng khảo sát thực tế tại Hưng Gia, phía đối tác Nhật vẫn chưa có động thái nào tiếp theo cho biết họ muốn hợp tác hay không.
"Họ đã qua xem mẫu mã hàng hóa, khảo sát nhà máy, quy trình sản xuất..., nhưng đến nay vẫn chưa phản hồi lại. Trong khi các khách hàng phương Tây chỉ cần một tháng là đã biết kết quả thì DN Nhật quá lâu. Hiện tại, chúng tôi không biết nên chờ đợi họ liên lạc lại hay chủ động liên họ với họ, hối thúc họ”, ông Nguyễn Thanh Liêm than thở.
Dù DN Nhật rất cẩn trọng trong việc tìm kiếm đối tác nhưng nhu cầu đầu tư của nước này vào Việt Nam lại bùng nổ, tập trung vào các DN vừa và nhỏ. Hiện tại, Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu về vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, với 78 tỷ USD, 2.014 dự án còn hiệu lực.
Bà Trần Thị Minh Trang, Giám đốc Điều hành Công ty Japan Circle, cho biết, hiện có rất nhiều DN Nhật đến Việt Nam tìm đối tác gia công da giày, kim loại cũng như các nhà phân phối bánh kẹo, thực phẩm chức năng...
Bên cạnh đó, các DN Nhật cũng đang tìm kiếm các đối tác có nhu cầu mua bán, sáp nhập DN trong các ngành bất động sản, vận tải, xây dựng... "Làm ăn với Nhật nếu hiểu biết cặn kẽ về văn hóa, tập quán kinh doanh và kiên nhẫn sẽ đáp ứng được những tiêu chuẩn khắt khe mà họ đưa ra", bà Trang nói.

Cùng tìm hiểu về nghịch lý xuất - nhập ô tô

Trong khi Lamborghini, Bentley vẫn đang trong quá trình hoàn tất để ra mắt thì thương hiệu Mini đã có mặt tại Việt Nam như kế hoạch mà nhà phân phối Euro Auto đã công bố. Ngày 5/9, hai chiếc Mini Cooper Countryman tiêu chuẩn và S đã cập cảng Cát Lái và nhanh chóng được trưng bày tại showroom BMW Long Biên (Hà Nội).

Tăng cả khi thị trường giảm
Bất chấp kinh tế suy thoái, lượng xe nhập khẩu về Việt Nam vẫn không hề bị ảnh hưởng. Bằng chứng là từ đầu năm đến nay, lượng xe nhập liên tục tăng, như số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, trong 7 tháng qua, đã nhập 19.712 ô tô, trị giá 363 triệu USD, tăng 24% về lượng và 8% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
> Dự thảo điều chỉnh thuế ô tô nhập khẩu
> Những “điểm chết” của ngành công nghiệp ô tô
> Thị trường ô tô: "Vớt vát" mùa cuối năm
> Công nghiệp ô tô: “Ngộp thở” vì thuế!
> Ô tô nhập khẩu sẽ giảm giá "sốc"?
Trong số xe nhập khẩu đó có đến gần 9.900 chiếc là ô tô dưới 9 chỗ. Đứng đầu trong danh sách này là xe nhập từ Hàn Quốc (gần 9.260 chiếc), tăng 38,9% so với cùng kỳ năm 2012 và chiếm 47% tổng lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu của cả nước. Vị trí thứ hai thuộc về Thái Lan với hơn 4.000 chiếc, Trung Quốc 2.280 chiếc, Nhật Bản 1.100 chiếc...
Tháng 7 vừa qua, Rolls-Royce - một trong những thương hiêu xe sang nhất thế giới đã chính thức có mặt tại Việt Nam. Rolls-Royce bán tại Việt Nam cả ba dòng xe: Phantom, Ghost và Wraith. Đại diện nhà phân phối Rolls-Royce tại Việt Nam - Công ty Rolls- Royce Motor Cars Hanoi - cho biết, Việt Nam tuy là thị trường mới nhưng rất tiềm năng, trong ba năm tới dự báo xe của Hãng bán tại thị trường này sẽ tăng trưởng hai con số.
Cùng với Rolls-Royce, hai thương hiệu xe siêu sang khác là Lamborghini và Bentley cũng đang "bước một chân" vào thị trường Việt Nam. Sự xuất hiện của Lamborghini, Bentley sau Rolls-Royce sẽ mở ra cơ hội cho khách hàng tiềm năng có thể tiếp cận các mẫu xe trứ danh cũng như các dịch vụ chăm sóc, bảo hành, bảo dưỡng chính hãng...
Trong khi Lamborghini, Bentley vẫn đang trong quá trình hoàn tất để ra mắt thì thương hiệu Mini đã có mặt tại Việt Nam như kế hoạch mà nhà phân phối Euro Auto đã công bố. Ngày 5/9, hai chiếc Mini Cooper Countryman tiêu chuẩn và S đã cập cảng Cát Lái và nhanh chóng được trưng bày tại showroom BMW Long Biên (Hà Nội).
Mới đây, Công ty Toyota Việt Nam cũng tiết lộ, thương hiệu xe sang của hãng là Lexus cũng sẽ ra mắt vào cuối năm nay. Và một loạt các mẫu xe của thương hiệu này sẽ trình làng tại triển lãm ô tô lớn nhất nước - Vietnam Motor Show diễn ra vào cuối tháng 10 tới.
Theo dự báo của Bộ Công Thương, vào năm 2025, nhu cầu ô tô của Việt Nam sẽ đạt khoảng 800.000-900.000 xe và tới năm 2030 tăng lên 1,5-1,8 triệu xe. Trước nhu cầu tiêu dùng này, lượng xe nhập khẩu sẽ còn tăng mạnh trong thời gian tới. Nếu dự án sản xuất dòng xe dưới 9 chỗ không thành hiện thực và phụ thuộc nhập khẩu hoàn toàn, thì kim ngạch nhập khẩu các loại ô tô năm 2025 là 12 tỷ USD, tới năm 2030 là 21 tỷ USD. Còn nếu phương án dòng xe dưới 9 chỗ được thực thi, sản xuất trong nước tốt nhất thì kim ngạch nhập khẩu ô tô năm 2025 cũng phải đến 5 tỷ USD và lên tới 9 tỷ USD vào năm 2030.
Xe nhập đã tràn ngập thị trường trong khi Việt Nam chỉ mới mon men xuất khẩu
Mon men "xuất ngoại"
Trong khi các hãng xe nước ngoài đang chinh phục thị trường Việt Nam thì xe trong nước mới mon men... xuất khẩu. Sự kiện 300 xe Mazda (Mazda 2, Mazda 3, Mazda CX-5) do Vina Mazda, công ty con của Trường Hải (Thaco) xuất sang Lào chỉ là con số rất nhỏ so với lượng xe nước ngoài được nhập về Việt Nam. Theo kế hoạch, Vina Mazda sẽ tăng sản lượng xe tiêu thụ tại thị trường các nước Đông Nam Á lên 3.000 xe vào năm 2014 và 15.000 xe/năm vào năm 2020. 

Tuy nhiên, theo đại diện của Thaco, số xe này được xuất khẩu thông qua Mazda Motor (Nhật Bản). Nghĩa là danh nghĩa xuất khẩu không phải là Thaco mà là Mazda Motor và Thaco chỉ làm nhiệm vụ lắp ráp theo đơn đặt hàng của Mazda Nhật Bản. Và Thaco cũng chỉ có thể xuất khẩu sang thị trường có "tay lái nghịch" như Lào còn các thị trường khác thì không thể. Trước Mazda, Thaco cũng đã tính đến chuyện xuất khẩu xe buýt, tuy nhiên, đến nay, doanh nghiệp này cũng chưa làm được mặc dù đây là dòng xe chiến lược của Thaco và cũng đã đạt được tỷ lệ nội địa hoá lên đến 40% - 46%.
Cái khó của nhà sản xuất trong nước là giá thành quá cao so với nhiều nước khác. Hiện giá xe ở Việt Nam cao gấp 1,5 - 2 lần so với Thái Lan, hơn 2,7 lần so với Nhật Bản. Các thương hiệu xe hơi trong nước chỉ có thể xuất sang các nước có chính sách xe giống Việt Nam, như Lào, Myanmar. Còn những nước như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Phillippes, thậm chí, cả Campuchia, Việt Nam "không có cửa" cạnh tranh. Tuy kinh tế chưa phát triển nhưng giá xe ở Campuchia rẻ hơn rất nhiều so với Việt Nam. Về mặt sản lượng và tiêu thụ, thị trường ô tô Việt Nam cũng không thể so với nhiều nước ASEAN khác. 

Chỉ tính riêng tại Thái Lan, số lượng ô tô tiêu thụ trong 20 ngày đã bằng một năm tại Việt Nam. Năm 2012, tiêu thụ nội địa của nước này đạt 1,4 triệu xe, và 700.000 xe cho xuất khẩu sang các nước ASEAN, châu Âu. Ngay cả như Indonesia, doanh số bán xe trong năm 2012 cũng đạt 1,2 triệu xe. Tại Thái Lan, tất cả các hãng ô tô lớn trên thế giới như Ford, GM, Toyota, Honda, Mitsubishi, Nissan... đều đã có nhà máy. Điều đáng nói là những nhà máy này có quy mô lớn gấp 5 - 6 lần ở Việt Nam và liên tục được hãng gia tăng đầu tư. Đơn cử như Ford, tuy mới xây dựng nhà máy tại Thái Lan vào năm 2010 nhưng đến nay đã có gần 1 tỷ USD mà hãng này đầu tư vào đây.

Tham khảo vấn đề :60% doanh nghiệp Nhật Bản có lãi tại Việt Nam

Vì vậy, nếu phân tích kỹ việc thu hút đầu tư đối với các DN Nhật Bản thì hiện Việt Nam đang phải chịu rất nhiều cạnh tranh từ các nước trong khu vực. Cụ thể, theo kết quả điều tra của JETRO, 81,5% DN Nhật Bản lo ngại việc tăng tiền lương cho người lao động. Trong khi đó, lương của công nhân trong ngành sản xuất chế tạo ở Campuchia chỉ bằng một nửa của Việt Nam, nên nếu chỉ xét về tiền lương thì có thể thấy Campuchia là đối thủ nặng ký của Việt Nam. Do đó, Việt Nam cần có lộ trình tăng lương phù hợp, vừa bảo đảm quyền lợi của người lao động, vừa duy trì được lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đó là các vấn đề trọng tâm được đặt ra tại hội thảo “Xúc tiến vốn đầu tư từ Nhật Bản - Cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt Nam”, do Tạp chí Bất động sản Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp (DN) TP.HCM phối hợp với Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (JETRO) tổ chức tại TP.HCM hôm 19/9/2013.
Ông Phạm Ngọc Hưng - Phó Chủ tịch Hiệp hội DN TP.HCM cho biết, trong 10 năm qua, quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản đã tăng gấp 4 lần giai đoạn trước. Riêng năm 2012, Việt Nam xuất khẩu qua nhật 12 tỷ USD và nhập khẩu giá trị tương đương.
Ngược lại, Nhật Bản hiện cũng là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 27 tỷ USD. Riêng 6 tháng đầu năm 2013, các DN Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam trên 4 tỷ USD, đóng góp 5,5% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, và xu hướng này vẫn đang tiếp tục.
6 tháng đầu năm 2013, các DN Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam trên 4 tỷ USD, đóng góp 5,5% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong ảnh: Công ty Toyota Việt Nam phía Nam
DN Nhật Bản ngại thị trường BĐS Việt Nam
Tìm đường vào siêu thị Nhật
M&A dịch vụ: Khẩu vị mới của Nhật
Tiếp tục mở đường đón DN Nhật Bản
Theo kết quả khảo sát, hiện 65,9% DN Nhật Bản tại Việt Nam cho biết đã có kế hoạch mở rộng kinh doanh trong 1-2 năm tới, 60,2% số DN Nhật Bản làm ăn tại Việt Nam có lãi, đặc biệt 34,2% số DN Nhật Bản (tăng 13,8% so với năm ngoái) tại Việt Nam tin rằng năm 2013 sẽ tốt hơn đối với họ.
Ông Hưng cũng cho biết, năm 2018 thuế suất bình quân đánh vào hàng của Nhật Bản nhập khẩu vào (tăng 13,8% so với năm ngoái) sẽ giảm dần còn 7%, các linh kiện sản xuất màn hình phẳng và DVD sẽ được giảm thuế suất nhập khẩu xuống 3% trong vòng 2 năm, máy ảnh kỹ thuật số sẽ được giảm xuống 10% trong vòng 4 năm, tivi màu sẽ được giảm xuống còn 40% trong vòng 8 năm…
Theo thống kê của JETRO, các ngành nghề chính Nhật Bản đầu tư nhiều vào Việt Nam là lắp ráp và phụ trợ; các ngành y tế, điện tử, dịch vụ cũng phát triển. Lý do nhiều DN Nhật vào Việt Nam là do giá nhân công Việt Nam rẻ, nguồn nhân lực dồi dào, phụ nữ Việt Nam tỉ mỉ, cần cù, Việt Nam có sự ổn định về chính trị… Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều vấn đề khó khăn trong môi trường kinh doanh, nếu không nhanh chóng giải quyết nhà đầu tư sẽ bỏ đi.
Theo ông Yasuzumi Hirotaka - Giám đốc điều hành JETRO, các cơ quan hành chính cần hỗ trợ xây dựng nhanh chóng và hợp lý cơ sở hạ tầng giao thông, điện…, thực hiện cơ chế một cửa, giải đáp thắc mắc thủ tục cấp phép nhanh chóng; cán bộ phụ trách cần hiểu rõ về chế độ và có thể giải thích một cách chắc chắn, rõ ràng. Các chính sách về hỗ trợ, ưu đãi của Chính phủ với DN Nhật Bản cũng chưa được phổ biến một cách rõ ràng. Đây là những rào cản khiến DN Nhật Bản đang gặp khó khăn nhiều nhất.
Bên cạnh đó,các vướng mắc về chính sách thuế cũng gây rủi ro rất lớn cho hoạt động kinh doanh. Cụ thể, những quy định khác nhau trong hệ thống luật hoặc thay đổi đột ngột, hướng dẫn và vận dụng luật không minh bạch, có sự vận dụng khác nhau giữa trung ương và địa phương, các chi cục thuế thanh tra thuế bừa bãi không có lý do thuyết phục…
Vấn đề tăng lương cũng là một gánh nặng cho các doanh nghiệp Nhật Bản. Cho dù về giá trị tuyệt đối thì tiền lương ở Việt Nam vẫn thuộc mức thấp so với các quốc gia khác trong khu vực nhưng chi phí nhân công tại Việt Nam (hiện là 18,3%) vẫn cao hơn của khối ASEAN (16,8%). Năm 2012, chi phí lương đã tăng 19,7% và dự kiến sẽ tiếp tục tăng 17,5% trong năm 2013.
Vì vậy, nếu phân tích kỹ việc thu hút đầu tư đối với các DN Nhật Bản thì hiện Việt Nam đang phải chịu rất nhiều cạnh tranh từ các nước trong khu vực. Cụ thể, theo kết quả điều tra của JETRO, 81,5% DN Nhật Bản lo ngại việc tăng tiền lương cho người lao động. Trong khi đó, lương của công nhân trong ngành sản xuất chế tạo ở Campuchia chỉ bằng một nửa của Việt Nam, nên nếu chỉ xét về tiền lương thì có thể thấy Campuchia là đối thủ nặng ký của Việt Nam. Do đó, Việt Nam cần có lộ trình tăng lương phù hợp, vừa bảo đảm quyền lợi của người lao động, vừa duy trì được lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ngoài ra, năng lực, ý thức của người lao động địa phương, chất lượng lao động, khó khăn trong việc tuyển chọn nhân lực làm lãnh đạo cũng là những vấn đề lớn đang tồn tại ở Việt Nam. Có tới 60,5% DN Nhật Bản than phiền về năng lực, ý thức của người lao động tại địa phương, 54,7% DN Nhật Bản gặp khó khăn trong việc tuyển dụng nhân sự cho vị trí lãnh đạo.
Một rào cản khác mà các nhà đầu tư Nhật Bản đang phải tháo gỡ là ngành công nghiệp phụ trợ còn quá ít, do đó việc tìm kiếm nguyên liệu, linh kiện ở Việt Nam rất khó. Chi phí mua nguyên liệu, linh kiện chiếm hơn một nửa giá thành sản xuất của các DN Nhật Bản, nên việc giảm chi phí nguyên liệu đang là thách thức chung đối với các DN Nhật Bản.
Hiện, tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu, linh kiện của Việt Nam rất thấp, chỉ ở mức 27,9%, thấp hơn nhiều so với mức bình quân chung là 47,8% và so với mức 60,8% của Trung Quốc hay 52,9% của Thái Lan, thậm chí Indonesia cũng đã đạt mức 43,3%. Trong số 158 DN Nhật đang hoạt động tại Việt Nam, chỉ có 30% thu mua nguồn nguyên liệu từ nội địa.
Trước những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại, đề xuất chung của các DN Nhật Bản là Việt Nam cần thực thi một cách chắc chắn chiến lược công nghiệp hóa trong 6 lĩnh vực gồm: điện tử, chế biến nông thủy sản, máy móc nông nghiệp, xe hơi và phụ tùng xe hơi, môi trường và tiết kiệm năng lượng, đóng tàu; thực thi một cách triệt để môi trường kinh doanh căn cứ theo sáng kiến chung Việt-Nhật; thực hiện ưu đãi trong những lĩnh vực quan trọng, cơ chế vốn lãi suất thấp cho các DN vừa và nhỏ. Và, quan trọng nhất là cả cơ quan hành chính và DN cần có tầm nhìn dài hạn, thúc đẩy nguồn nhân tài kinh doanh.

Tìm hiểu vấn đề doanh nghiệp trong nước còn lơ mơ về TPP

Tuy vẫn còn nhiều băn khoăn, lo lắng, nhưng ông Diệp Thành Kiệt nhấn mạnh rằng, DN phải đón nhận TPP, vấn đề là làm thế nào để thấy được cơ hội và thách thức. “Chính phủ cần phải có những quyết sách quyết liệt và cần người nhạc trưởng tài ba để điều hành việc này. DN nào hiểu được và nhanh chân tận dụng được cơ hội từ TPP thì sẽ hưởng lợi lớn”, ông Kiệt nói.
Vẫn còn xa lạ…
Mới đây, trong chuyến tham quan Nhà máy sản xuất thuốc thú y - thủy sản Mebipha tại Khu công nghiệp Bourbon (Tây Ninh), chúng tôi có dịp trò chuyện với bà Lâm Thúy Ái, Phó tổng giám đốc Công ty về những định hướng phát triển của Mebipha trong thời gian tới.
Với quy mô đầu tư nhà máy 120 tỷ đồng theo chuẩn GMP-WHO, bà Ái kỳ vọng, Công ty sẽ có thể mở rộng địa bàn kinh doanh ra các nước lân cận.
Việc tham gia TPP sẽ tác động mạnh đến hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Thế nhưng, kỳ vọng này sẽ gặp trở ngại lớn nếu Công ty không đáp ứng được các tiêu chí của TPP, khi hiệp định này có hiệu lực tại Việt Nam. Bà Ái cũng chưa có thông tin cụ thể về điều này.
Trường hợp như bà Ái không phải là hiếm. Tiếp xúc với nhiều DN, chúng tôi cũng nhận được câu trả lời tương tự khi hỏi về các vấn đề liên quan đến TPP.
Ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Sản xuất - Thương mại May Sài Gòn (Garmex Sài Gòn) cho biết, ông có rất ít thông tin về TPP, dù ông rất quan tâm đến hiệp định này.
Doanh thu năm 2012 của Garmex Sài Gòn lên tới 50 triệu USD cho thấy, công ty này gắn với hội nhập như thế nào. Theo ông Hùng, TPP giúp Garmex Sài Gòn có cơ hội cơ cấu lại khách hàng, tìm được khách hàng phù hợp với năng lực.
Tuy nhiên, cơ hội để ông tiếp cận thông tin về TPP còn rất hạn chế. Nguyên nhân là, ngoài quy định chung của TPP ra, không ra bất cứ tuyên bố nào sau mỗi vòng đàm phán. Thêm vào đó, giới truyền thông Việt Nam cũng ít được cập nhật những thông tin chính thống.
Là người có kinh nghiệm về hội nhập quốc tế, ông Văn Đức Mười, Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH một thành viên Vissan, kiêm Chủ tịch Hội Lương thực - Thực phẩm TP.HCM thừa nhận: “Khi hàng rào thuế quan dỡ bỏ, DN phải cạnh tranh gay gắt, thị phần hàng hóa sẽ bị thu hẹp, thậm chí có thể mất thị phần nội địa, nhưng các DN thành viên hầu như chưa chuẩn bị gì để đón nhận TPP”.
Đó là chưa kể những thỏa thuận và đàm phán của Việt Nam về vấn đề lao động, sở hữu trí tuệ hay môi trường sẽ tác động mạnh mẽ đến cộng đồng DN trong nước ở mọi ngành nghề khác nhau.
Điều này khiến ông Lương Văn Lý, Trưởng bộ phận Thương mại và Đầu tư của Công ty Luật TNHH Việt Long Thăng (TP.HCM) e ngại rằng, khi Việt Nam chính thức là thành viên của TPP, không ít DN trong nước có thể phải ngưng hoạt động vì những quy định như vậy.
Rào cản phải vượt qua
Dự kiến, khi TPP được thông qua thì triển vọng xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng lên cả về chất và lượng. Trong đó, lĩnh vực dệt may, da giày được cho là hưởng lợi nhiều nhất khi thuế suất nhập khẩu từ 7 - 15% hiện nay sẽ về 0%. Thế nhưng, mọi chuyện không phải dễ dàng.
Là người tham gia một vòng đàm phán của TPP, có nhiều năm lăn lộn trong ngành dệt may và da giày, ông Diệp Thành Kiệt, Phó chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam cho rằng, có nhiều điểm mà DN Việt Nam phải đối mặt, trong đó nổi cộm là vấn đề xuất xứ nguồn hàng.
Hiện nay, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chưa đáp ứng được các điều kiện về xuất xứ trong TPP để được hưởng ưu đãi thuế quan 0%. Đối với ngành dệt may, điều khoản đang đàm phán là nguyên tắc xuất xứ “từ sợi trở đi” (yarn –forward).
Theo ông Kiệt, nếu cứ theo quy tắc muốn hưởng thuế 0% khi xuất sang các nước TPP, thì mọi công đoạn từ sợi trở đi phải được làm ở các nước TPP. Vì vậy, hầu như chẳng có sản phẩm nào từ Việt Nam được miễn thuế khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ, bởi vải nhập từ Trung Quốc, sợi chỉ từ Hàn Quốc, các phụ kiện chủ yếu từ một số nước Đông Nam Á...
Liên quan vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh (thành viên tham gia vòng đàm phán lần thứ 19 mới đây tại Brunei) cho hay, đối với những yêu cầu về xuất xứ hàng dệt may, giày dép và các mặt hàng khác, đoàn đàm phán đang tìm các giải pháp sao cho vừa thúc đẩy được tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng này vào thị trường Hoa Kỳ và các nước thành viên TPP sau khi Hiệp định có hiệu lực, vừa đảm bảo cho DN Việt Nam có được nguồn thu cao nhất từ cơ hội xuất khẩu đó.
Tuy nhiên, theo ông Kiệt, để mọi việc nói trên có thể thuận buồm xuôi gió, Việt Nam cần có quy hoạch vùng nguyên liệu, đầu tư vào công nghiệp phụ trợ như những dự định trước đây Chính phủ đã đặt ra. “Hơn 10 năm trước, Chính phủ đã có chủ trương đầu tư vào vùng nguyên liệu cho ngành dệt may. Nhưng khi triển khai trên thực tế gặp nhiều khó khăn, khiến việc này vẫn dừng lại ở dự định”, ông Kiệt cho biết.
Còn đối với ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch HĐQT Garmex Sài Gòn, việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cho dệt may như một giấc mơ dang dở vì những rào cản chính sách.
Ông Hùng cho biết, việc Garmex xin phép đầu tư các dự án dệt nhuộm đều bị chính quyền địa phương từ chối, với lý do là dự án phải đạt mức tiêu chuẩn nước thải loại A (nước có thể uống được), trong khi khả năng của DN chỉ có thể xử lý nước thải ở mức B (nước có thể trồng rau, nuôi cá).
Trong khi đó, nếu DN Việt Nam không chuẩn bị tốt, thì khi TPP có hiệu lực, chính rào cản về vùng nguyên liệu và xuất xứ sản phẩm sẽ là điều kiện tốt cho các DN FDI hưởng lợi. Mới đây, một loạt DN nước ngoài đã đẩy mạnh đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam, như Công ty Kyungbang (Hàn Quốc), Texhong (Hồng Kông - Trung Quốc), Sunrise (Trung Quốc)...
Không chỉ vậy, theo thông tin của ông Kiệt, Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam (AmCham) cho biết, các DN Mỹ đang muốn xây dựng một nhà máy sợi với quy mô lớn tại Việt Nam. Điều này cho thấy, DN nước ngoài rất muốn tận dụng nhân lực giá rẻ, sản xuất nguyên liệu tại Việt Nam và xuất ngược về quốc gia của họ.
Sẵn sàng chuyển mình?
Trở lại câu chuyện với bà Lâm Thúy Ái. Những ngày gần đây, bà đã nghiên cứu nhiều tài liệu về TPP và đã chuẩn bị sẵn sàng cho sự chuyển mình này. “Nếu TPP có hiệu lực, thì Mebipha cũng như các DN khác không còn cách nào là phải đón nhận”.
Liên quan vấn đề này, ông Văn Đức Mười lưu ý, theo quy tắc về các chỉ dẫn địa lý, ai đăng ký trước sẽ được bảo hộ.
“Các thương hiệu như tỏi Lý Sơn, nước mắm Phú Quốc, vải thiều Thanh Hà, cam Vinh, hoa Đà Lạt... nếu không may bị ai đó nhanh chân đăng ký trước, thì DN Việt Nam sẽ không còn được sử dụng các tên gọi đó nữa”, ông Mười phân tích. Để hạn chế điều này, theo ông Mười, ngay từ bây giờ, các DN phải hiểu quy định để chuẩn bị.
Tuy vẫn còn nhiều băn khoăn, lo lắng, nhưng ông Diệp Thành Kiệt nhấn mạnh rằng, DN phải đón nhận TPP, vấn đề là làm thế nào để thấy được cơ hội và thách thức. “Chính phủ cần phải có những quyết sách quyết liệt và cần người nhạc trưởng tài ba để điều hành việc này. DN nào hiểu được và nhanh chân tận dụng được cơ hội từ TPP thì sẽ hưởng lợi lớn”, ông Kiệt nói.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, người có nhiều kinh nghiệm về đàm phán thương mại và tiếp xúc với nhiều DN băn khoăn nhất về việc DN sẽ tiếp cận những cơ hội đến từ TPP như thế nào.
“Năm 2002, Việt Nam ký Hiệp định Thương mại song phương (BTA) với Mỹ, DN đã tận dụng cơ hội rất tốt. Tuy nhiên, từ khi Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007) đến nay, kết quả nhận được lại không khả quan. Tôi mong TPP là cú hích mới như BTA, chứ không như WTO”, bà Lan nói.
Đối với DN, TPP có lẽ là hiệp định tự do thương mại đầu tiên có riêng một phần về các DN nhỏ và vừa. Theo chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành, không ai có thể “khuyên bảo” các DN một cách thật cụ thể cần phải làm gì, vì mỗi ngành nghề, mỗi DN có những đặc điểm riêng. Chỉ có họ, sau khi tìm hiểu thật kỹ các quy định của TPP, thì mới rút ra được điểm mạnh, điểm yếu của mình để tận dụng cơ hội theo hướng khả thi nhất.

Chia sẻ với bạn: Admicro đấu Google trên sân Việt Nam

Facebook đang nắm giữ hầu hết mảng quảng cáo trên mạng xã hội tại Việt Nam. Uớc tính số liệu tại thị trường châu Á trong quý II/2012 của mạng này cho thấy Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng trưởng người dùng cao nhất khu vực, bỏ xa thị trường đứng thứ nhì là Nhật. Ngoài ra, hiện có gần 40% người Việt dùng Facebook để kinh doanh sản phẩm và dịch vụ.
Admicro đã nhanh chân hơn đối thủ Google một bước khi chủ động liên kết với nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo di động để tăng độ bao phủ thị trường.
Ngân sách quảng cáo trên di động được hiệp hội quảng cáo việt nam dự kiến sẽ tăng lên hơn 10% trong năm nay và đây là lý do các công ty lớn nhảy vào lĩnh vực này để đón đầu xu hướng.
Mới đây, một ông lớn trong lĩnh vực quảng cáo trực tuyến là Admicro đã tuyên bố tham gia phân khúc quảng cáo di động bằng việc liên kết với 5 đối tác: InMobi Global (Ấn Độ), TV Plus - Golden Digital (hai đơn vị quảng cáo của Việt Nam), Wada.vn và ViettelAds (Viettel), tạo thành Mobile Ad Network, có độ phủ lên đến 90% người dùng di động tại Việt Nam.
Trong số đó, InMobi Global là dịch vụ quảng cáo trực tuyến ấn tượng nhất với độ phủ khoảng 40% người dùng di động tại 165 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Admicro hiện là đơn vị kinh doanh các website có lượng truy cập trên di động cao như Dân trí hay CafeF, đồng thời tiếp cận được khoảng 18 triệu người dùng di động tại Việt Nam.
Do vậy, Admicro đã quyết định dùng sức mạnh liên kết để đánh vào thị trường ngách quảng cáo trên di động và bước đi này là khá hợp lý, nhất là trong bối cảnh Facebook và Google đã nắm giữ được lợi thế trên thị trường quảng cáo trực tuyến trong nước.
Facebook đang nắm giữ hầu hết mảng quảng cáo trên mạng xã hội tại Việt Nam. Uớc tính số liệu tại thị trường châu Á trong quý II/2012 của mạng này cho thấy Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng trưởng người dùng cao nhất khu vực, bỏ xa thị trường đứng thứ nhì là Nhật. Ngoài ra, hiện có gần 40% người Việt dùng Facebook để kinh doanh sản phẩm và dịch vụ.
Còn đối với Google, theo thống kê của hãng nghiên cứu thị trường The Nielsen và TNS, cỗ máy tìm kiếm này đang chiếm hơn 90% thị trường tìm kiếm trực tuyến, đem lại khoảng 70% lượng truy cập cho các website tại Việt Nam.
Từ đầu năm 2013 đến nay, Google đã liên tiếp giới thiệu phiên bản tiếng Việt của các dịch vụ quảng cáo trực tuyến như AdWords và AdSense với kỳ vọng đạt doanh thu 30 triệu USD/năm tại Việt Nam.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Thế Tân, Phó Tổng Giám đốc VC Corp - đơn vị chủ quản của Admicro, tin rằng mạng quảng cáo di động Mobile Ad Network của họ sẽ đủ sức đương đầu với cả Facebook lẫn Google ở thị trường ngách này.
Theo ông Tân, doanh thu của Facebook đến từ quảng cáo trong các ứng dụng là chủ yếu. Ở nước ngoài, các hãng sản xuất ứng dụng sau khi có lãi sẽ dùng toàn bộ số tiền đó bỏ vào quảng cáo để mở rộng quy mô, vì vậy doanh thu từ quảng cáo trực tuyến của Facebook ngày càng phình to ra hơn.
Còn tại Việt Nam, trước mắt vẫn chưa có nhiều nhà sản xuất ứng dụng hoặc nếu có thì cũng không được đầu tư, nên doanh thu quảng cáo trực tuyến và quảng cáo trên di động của Facebook tại đây chưa thể tăng ngay được.
Đối với Google, đại diện của VC Corp cho rằng cỗ máy tìm kiếm của Mỹ sớm muộn gì cũng sẽ chiếm được thị phần tương xứng với sức mạnh của họ.
Kế hoạch phát triển của Admicro đến 2015
Tuy nhiên trước mắt, Admicro đã nhanh chân hơn đối thủ một bước khi chủ động liên kết với các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo di động khác để tăng độ bao phủ thị trường, đồng thời ký hợp đồng độc quyền với các website đứng đầu ở nhiều lĩnh vực khác nhau để chặn đầu đối thủ.
Ngay sau khi Admicro ra mắt Mobile Ad Network, Google đã có những biện pháp nhằm đẩy mạnh doanh thu từ mảng quảng cáo trên di động tại Việt Nam. Bên cạnh AdWords và AdSense, tập đoàn này đã Việt hóa dịch vụ quảng cáo trên di động AdMob của họ.
Dù mạng quảng cáo dành cho di động của Google đang lấn lướt InMobi Global tại nhiều thị trường trên thế giới, nhưng Việt Nam lại là một trong số vài quốc gia mà đối thủ Ấn Độ đang có phần chiếm ưu thế.
Cách đây 2 năm, thống kê cho thấy lượng yêu cầu quảng cáo từ các nhà sản xuất ứng dụng tiếng Việt cho InMobi Global cao gấp đôi AdMob.
Ông James McClure, Giám đốc Quốc gia các thị trường Nam và Đông Nam Á của Google, không phủ nhận những thế mạnh mà Mobile Ad Network của Admicro đang sở hữu.
Tuy nhiên, ông cũng cho rằng một số công ty mới chỉ nhìn “di động” theo khái niệm thiết bị chứ chưa nghĩ đến việc tiếp cận người dùng để quảng cáo cho phù hợp với bối cảnh hoạt động của họ.
Ví dụ: khách hàng có thể ngồi ở bàn làm việc hoặc đi trên đường và tự hỏi nên đến đâu để dùng bữa vào giờ ăn trưa hay buổi tối sau khi đi làm về. Doanh nghiệp quảng cáo di động sẽ tiếp cận những đối tượng này như thế nào cho đúng lúc và đúng chỗ?
Tại Việt Nam, đại diện của Google cho biết họ sẽ đẩy mạnh công cụ cho phép doanh nghiệp thực hiện các chiến dịch quảng cáo thống nhất trên tất cả các giao diện từ máy tính để bàn, máy tính xách tay cho đến các thiết bị di động.
Về định hướng lâu dài, hoạt động quảng cáo trên di động phù hợp với bối cảnh sinh hoạt của khách hàng sẽ được Google tích hợp dần song song với sự phát triển hạ tầng viễn thông của Việt Nam.

Tìm hiểu vấn đề: Chí phí tài chính vẫn là gánh nặng của DN

Theo lãnh đạo công ty, quý 2/2013, mặc dù chi phí tài chính giảm được hơn 3,7 tỉ đồng do nợ gốc các ngân hàng giảm và lãi suất cho vay của một số ngân hàng giảm so với cùng kỳ, song doanh nghiệp cũng bị tăng chi phí khác hơn 16,8 tỉ đồng, do giá vốn hàng bán thanh lý tăng và lãi phạt nợ quá hạn của các ngân hàng tăng.
Mặc dù mặt bằng lãi suất tín dụng đã liên tục giảm với tốc độ khá nhanh thời gian qua, song chi phí vay vốn vẫn là một trong những áp lực lớn nhất trên vai nhiều doanh nghiệp, tác động không nhỏ đến kết quả kinh doanh.
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đi xuống và thị trường chứng khoán cũng theo đó tuột dốc
Nợ “vượt mặt” vốn cả ngàn lần
Kết thúc quý 2/2013, công ty cổ phần đầu tư và xây lắp dầu khí Sài Gòn (niêm yết trên sàn chứng khoán Hà Nội, mã PSG) bước sang quý kinh doanh thứ bảy liên tiếp lỗ, tính từ quý 4/2011 đến nay, với khoản lỗ luỹ kế lên tới hơn 400 tỉ đồng, âm cả vào vốn điều lệ gần 50 tỉ đồng.
Cụ thể, khoản lỗ ghi nhận tại thời điểm 30.6.2013 lên tới hơn 63,5 tỉ đồng. Báo cáo tài chính (BCTC) sáu tháng soát xét cũng cho thấy, doanh nghiệp đang phải cõng trên lưng khoản nợ phải trả tại thời điểm 30.6 tới hơn 1.000 tỉ đồng, trong đó, nợ ngắn hạn hơn 962 tỉ đồng.
Một trường hợp có kết quả kinh doanh bi đát tương tự khác, là công ty cổ phần Nam Vang (NVC). Chỉ riêng trong quý 2, NVC đã lỗ hơn 67,6 tỉ đồng, nâng khoản lỗ sáu tháng lên hơn 78,8 tỉ đồng và lỗ luỹ kế đến thời điểm 30.6 xấp xỉ 233 tỉ đồng, “ăn” cả vào vốn xấp xỉ 60 tỉ đồng.
Nam Vang cũng đang chịu áp lực khoản nợ ngắn hạn hơn 885 tỉ đồng, trong đó vay và nợ ngắn hạn hơn 417 tỉ đồng. Khoản vay lớn nhất của Nam Vang tới hơn 269 tỉ đồng, tại công ty cổ phần Tài chính dầu khí (PVFC), còn lại dao động trên dưới 40 tỉ đồng, tại các ngân hàng như Agribank, BIDV, Techcombank, PVFC, ngoài ra còn một chủ nợ là công ty TNHH Trường Thành với hơn 5,5 tỉ đồng.
Công ty cổ phần xây lắp dầu khí miền Trung (mã chứng khoán PXM, niêm yết tại sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM) cũng chung tình cảnh. Tại thời điểm 30.6.2013, nợ phải trả của doanh nghiệp này là hơn 684,4 tỉ đồng, trong đó nợ ngắn hạn hơn 605,4 tỉ đồng.
Cũng trong nửa đầu năm 2013, doanh nghiệp đã thua lỗ hơn 141,8 tỉ đồng và lỗ luỹ kế đến ngày 30.6 năm nay tới gần 250 tỉ đồng, trong khi vốn điều lệ của PXM chỉ là 150 tỉ đồng…
Ba doanh nghiệp kể trên nằm trong số hàng ngàn doanh nghiệp đang phải nặng gánh nợ nần, trong đó hàng trăm doanh nghiệp rơi vào tình cảnh riêng khoản nợ ngắn hạn đã vượt xa vốn chủ sở hữu, như công ty GGG, vay và nợ ngắn hạn hơn 106 tỉ đồng, trong khi vốn chủ sở hữu chỉ còn 65 triệu đồng (do kinh doanh thua lỗ kéo dài), nghĩa là vay nợ ngắn hạn gấp 1.635 lần so với vốn chủ sở hữu.
Công ty BHV, vay và nợ ngắn hạn gấp 114 lần vốn chủ sở hữu; công ty FDG vay và nợ gấp 7,9 lần vốn chủ sở hữu; tỷ lệ này ở công ty FIT là 7,7 lần, của công ty PSD và VLF là hơn 6 lần, công ty HIS, LM3 hơn 4 lần…
Lãi vay cao hơn chi phí quản lý
Kết quả kinh doanh bi đát của những doanh nghiệp kể trên có nhiều nguyên nhân, song có thể nói, nợ lớn, chi phí lãi vay cao cũng là một áp lực không nhỏ.
Lấy dẫn chứng như công ty PSG, tính từ đầu năm 2013 tới nay, chỉ riêng chi phí lãi vay doanh nghiệp này phải chi trả hơn 25,8 tỉ đồng, cao hơn hai lần so với chi phí quản lý doanh nghiệp (chỉ 9,67 tỉ đồng).
Theo lãnh đạo công ty, quý 2/2013, mặc dù chi phí tài chính giảm được hơn 3,7 tỉ đồng do nợ gốc các ngân hàng giảm và lãi suất cho vay của một số ngân hàng giảm so với cùng kỳ, song doanh nghiệp cũng bị tăng chi phí khác hơn 16,8 tỉ đồng, do giá vốn hàng bán thanh lý tăng và lãi phạt nợ quá hạn của các ngân hàng tăng.
Hay công ty Nam Vang, trong quý 2/2013, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp đạt hơn 101,6 tỉ đồng, song chỉ riêng chi phí tài chính đã lên tới hơn 28,8 tỉ đồng, trong đó chi phí lãi vay hơn 24 tỉ đồng.
Luỹ kế sáu tháng đầu năm, chi phí tài chính và chi phí lãi vay của doanh nghiệp lần lượt là 40,5 tỉ đồng và 35,8 tỉ đồng, cao gấp gần hai lần chi phí quản lý doanh nghiệp (sáu tháng chi phí quản lý doanh nghiệp chỉ hơn 28,1 tỉ đồng).
Tương tự, công ty PXM, sáu tháng đầu năm 2013, doanh nghiệp đã phải dành hơn 20,6 tỉ đồng chi phí tài chính, trong đó đại đa số là chi phí lãi vay (gần suýt soát chi phí quản lý doanh nghiệp là hơn 26 tỉ đồng)…
Mặc dù trong hai năm trở lại đây, đặc biệt là từ đầu năm 2013 đến nay, mặt bằng lãi suất cho vay vốn liên tục giảm với mức giảm khá nhanh, song phần nhiều doanh nghiệp gia tăng nợ nần nên tính chung lại, chi phí lãi vay vẫn tăng lên, hoặc ở mức cao.
Một thống kê gần đây về chi phí lãi vay của các doanh nghiệp niêm yết tại sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội, cho thấy, trong quý 2/2013, các doanh nghiệp trên sàn này đã phải trả khoảng 970 tỉ đồng tiền lãi vay vốn.
Mặc dù khoản chi phí này đã giảm 30% so với cùng kỳ năm 2012, song vẫn là một áp lực nặng nề trong bối cảnh doanh thu của hầu hết doanh nghiệp đều sụt giảm, tồn kho tăng cao.
Cũng theo thống kê của cơ quan này, so với năm 2011, năm 2012, số lượng doanh nghiệp thua lỗ tăng gần 65%, giá trị khoản lỗ cũng tăng gần 63% (gần 3.500 tỉ đồng), số doanh nghiệp có lãi giảm gần 11%, song tổng giá trị lợi nhuận giảm trên 18%...

Chia sẻ cùng bạn về lực hấp dẫn từ tín dụng tiêu dùng.

Lợi thế là vậy, nhưng theo các chuyên gia, việc giành được một phần "miếng bánh" thị trường TDTD không dễ dàng. Hiện nay, ngành này đã được rất nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước khai thác. Bên cạnh các công ty tài chính nước ngoài như SGVF, PPF Vietnam, Prudential Vietnam, các ngân hàng nhỏ và vừa như VPBank, MDB, KienLongBank, Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB) và cả ngân hàng lớn như Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cũng tham gia TDTD.
Xếp hàng chờ M&A
Cùng với làn sóng M&A ngân hàng, M&A của các tổ chức tài chính cũng diễn ra sôi động. Điển hình là vụ HDBank mua lại 100% vốn của Công ty Tài chính Việt Société Générale (SGVF).
Đây được xem là giao dịch đầu tiên theo phương thức mua lại tổ chức tín dụng, mở đầu cho xu hướng các định chế Việt Nam mua lại các định chế khác để hình thành các tập đoàn tài chính - ngân hàng.
Ông Lê Thành Trung, Phó tổng giám đốc HDBank, cho rằng, việc mua lại SGVF là hoạt động M&A theo xu hướng quốc tế tại Việt Nam, nằm trong chủ trương tái cấu trúc của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
Trước HDBank, Công ty Tài chính Fullerton Financial Holdings (FFH), công ty con của Tập đoàn Temasek (Singapore) đã nâng mức sở hữu cổ phần tại Mekong Bank (MDB), một ngân hàng cho vay tiêu dùng ở đồng bằng sông Cửu Long từ 15% lên 20%.
Lĩnh vực TDTD không dừng lại ở hai thương vụ này, Tổng công ty Tài chính CP Dầu khí Việt Nam (PVFC) cũng đang hoàn tất những công đoạn cuối cùng để sáp nhập với Ngân hàng Phương Tây (WesternBank), một thương vụ được StoxPlus đánh giá là sẽ giúp PVFC đẩy mạnh dịch vụ TDTD.
Và với tên gọi mới là Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVcom Bank), sau khi thành lập, PVcom Bank sẽ có vốn điều lệ 9.000 tỷ đồng với 102 điểm giao dịch.
Làn sóng M&A của các công ty tài chính và ngân hàng chắc chắn sẽ dài thêm bởi TDTD đang rất tiềm năng. Theo ông Lê Thành Trung, hiện nay, tỷ trọng TDTD chỉ chiếm khoảng 5 - 6% GDP, một con số rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hiện nay, TDTD ở Thái Lan đã bằng 18% GDP, trong khi con số này tại Malaysia lên tới 42%. Do đó, không khó để nhận thấy xu hướng tăng trưởng của TDTD trong thời gian tới.
Trong khi nhiều ngân hàng trong tình trạng lỗ thì các công ty tài chính như PPF Vietnam, Prudential Vietnam... lại phát triển mạnh mẽ nhờ TDTD. Cụ thể như PPF Vietnam (thương hiệu Home Credit), đến tháng 8/2013, số lượng hợp đồng còn hiệu lực là gần 440.000, tăng đến 98% so với năm 2012, gấp 10 lần so với năm 2004.
Hiện tại, Công ty có đến 3.400 điểm bán tại tất cả các tỉnh - thành trong cả nước và mỗi ngày phải nhận và giải quyết 3.000 hồ sơ vay của khách hàng. Về số lượng khách vay, đến cuối tháng 8, PPF Vietnam có đến hơn 800.000 và dự kiến đến cuối năm nay sẽ đạt con số 1 triệu.
Chỉ còn "cá lớn" sống
Với tiềm năng thị trường lớn, nhiều nhận định cho rằng, việc mua lại SGVF sẽ giúp HDBank phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực TDTD. Nhận định này cũng có cơ sở bởi trước đó, việc nâng vốn của FFH đã giúp MDB tăng trưởng 20% trong năm 2012.
Phân khúc khách hàng nhỏ như nông dân, tiêu dùng cá nhân (đặc biệt là vay mua xe gắn máy), tiểu thương kinh doanh tại các chợ và doanh nghiệp vừa và nhỏ đã trở thành khách hàng chiến lược của ngân hàng này. Tuy nhiên, điều mà mọi người quan tâm là sau thương vụ này, SGVF sẽ phát triển như thế nào?
Ông Trung cho biết, HDBank sẽ tiếp tục phát triển trên thị trường tài chính và duy trì cơ cấu nhân sự hiện tại đồng thời giữ nguyên hệ thống đối tác, khách hàng của SGVF. Nghĩa là SGVF sẽ tiếp tục phát triển dịch vụ tài chính cá nhân, cho vay trả góp như từ trước đến nay.
Khoảng 1.100 nhân viên với mạng lưới hoạt động tại 42 tỉnh - thành cùng hơn 125.000 khách hàng thông qua 300 đối tác và gần 800 điểm dịch vụ của SGVF tại các cửa hàng xe máy và điện máy sẽ tiếp tục được khai thác.
Lợi thế là vậy, nhưng theo các chuyên gia, việc giành được một phần "miếng bánh" thị trường TDTD không dễ dàng. Hiện nay, ngành này đã được rất nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước khai thác. Bên cạnh các công ty tài chính nước ngoài như SGVF, PPF Vietnam, Prudential Vietnam, các ngân hàng nhỏ và vừa như VPBank, MDB, KienLongBank, Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB) và cả ngân hàng lớn như Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cũng tham gia TDTD.
Đó là chưa kể, tham gia lĩnh vực này, ngân hàng phải chấp nhận tỷ lệ nợ xấu cao. Nếu các ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu dao động từ 2 - 6% thì trong lĩnh vực TDTD thường ở mức hai con số. Tuy nhiên, ông Friedrich Weiss, Tổng giám đốc Công ty Tài chính PPF Vietnam, cho rằng, đối với công ty tài chính, tỷ lệ nợ xấu dưới 10% là có thể chấp nhận được.
"Trong khi nợ xấu của ngân hàng ở mức 4% đã bị lỗ thì tỷ lệ nợ xấu của chúng tôi gần 10% nhưng vẫn lãi. Cụ thể, trong năm 2012, chúng tôi lãi đến 20 triệu USD (khoảng 400 tỷ đồng)", ông Friedrich Weiss cho biết.
Ông Trung cũng thừa nhận, việc mua SGVF tạo ra cơ hội nhưng đồng thời cũng có không ít thách thức đối với HDBank. Bởi bên cạnh các tổ chức tín dụng nước ngoài dày dạn kinh nghiệm, HDBank còn phải cạnh tranh với những tổ chức tín dụng trong nước vốn am hiểu thị trường và khách hàng.
Tuy nhiên, HDBank đã chủ động tự tích lũy sự am hiểu thị trường cũng như kinh nghiệm quản lý khách hàng. "Thương vụ mua lại SGVF là một lợi thế bổ trợ, giúp HDBank tận dụng kinh nghiệm từ một tổ chức quốc tế, từ đó cải tiến, hoàn thiện quy trình quản lý, giám sát và kiểm soát hoạt động cho vay", ông Trung nói.

Giới thiệu với bạn chuyện sẽ chuyển sang nhập khẩu?

Ông Kiyoshi Teshima, Phó tổng giám đốc Công ty Vinastar (thương hiệu xe Mitsubishi), cho biết, song song với xe lắp ráp trong nước, Mitsubishi còn kinh doanh xe nhập khẩu. "Khi lộ trình hội nhập AFTA có hiệu lực thì để đảm bảo sự tồn tại của DN, các nhà sản xuất buộc phải cân nhắc giữa việc giảm giá thành và lợi nhuận, giữa việc lắp ráp và nhập khẩu xe, xem điều nào hiệu quả hơn để chuyển mô hình hoạt động", ông Kiyoshi Teshima cho biết.
DN trong nước tăng cường nhập khẩu ô tô
Tăng cường nhập khẩu
> Thị trường ô tô: Ngoại lấn nội
> Ô tô nhập khẩu sẽ giảm giá "sốc"?
> Giảm giá ô tô: Cứ chờ sau 2018
> Ngành ô tô Việt Nam đã "vuột cơ hội"?
> Doanh nghiệp ô tô tìm hỗ trợ
Năm 2018, theo lộ trình hội nhập AFTA, thuế suất các dòng xe nhập khẩu sẽ bằng 0% và xe từ các nước ASEAN sẽ vào Việt Nam một cách dễ dàng. Còn đến 5 năm nữa, lộ trình này mới thành hiện thực, nhưng hiện nay, các nhà sản xuất xe trong nước đã bắt đầu tính đến chuyện nhập khẩu. Hãng Toyota công bố sẽ đưa thương hiệu Luxes vào Việt Nam trong năm nay.
Tại triển lãm Vietnam Motor Show 2013 vào tháng 10 tới, những mẫu xe Luxes do Toyota Việt Nam đưa về sẽ được giới thiệu với người tiêu dùng trong nước. Trong khi đó, Honda Việt Nam dù đang rất thành công với mẫu xe City ra mắt trong tháng 6 nhưng cũng đang lên kế hoạch nhập khẩu xe. 

Theo ông Tomohiro Maruto, Giám đốc Điều hành khối bán hàng ô tô Công ty Honda Việt Nam, sau ba tháng ra mắt mẫu xe City, Honda Việt Nam đã nhận được hơn 1.600 đơn đặt hàng nhưng đến cuối tháng 8, Công ty mới giao được hơn 300 xe cho khách. Hiện tại, Công ty đang tăng công suất sản xuất để có thể giao thêm 600 xe vào cuối năm nay. Thành công với mẫu xe lắp ráp trong nước là vậy, nhưng công ty này vẫn đang chuẩn bị nhập khẩu mẫu xe Accord mới vào cuối năm nay. 

Mitsubishi với thế mạnh của những dòng xe hai cầu cũng tuyên bố sẽ đưa hai dòng xe nhỏ về Việt Nam trong cuối 2013. Theo tiết lộ từ Hãng thì hai mẫu xe này hướng đến khách hàng nữ và sẽ được giới thiệu tại triển lãm ô tô trong tháng 10. Ford Việt Nam cũng đã nhập khẩu dòng xe bán tải Ranger từ Thái Lan.
Như vậy, tính đến nay, khá nhiều thành viên Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAWA) đã và đang tăng cường nhập khẩu. Năm 2012, mặc dù mức tiêu thụ chỉ đạt hơn 92.000 xe (giảm 33% so với năm 2011), nhưng các hãng vẫn liên tục mở rộng hệ thống phân phối. Dường như đây là bước chuẩn bị cho việc nhập khẩu khi thuế suất nhập khẩu ô tô từ các nước ASEAN còn 0%.

Ông Kiyoshi Teshima, Phó tổng giám đốc Công ty Vinastar (thương hiệu xe Mitsubishi), cho biết, song song với xe lắp ráp trong nước, Mitsubishi còn kinh doanh xe nhập khẩu. "Khi lộ trình hội nhập AFTA có hiệu lực thì để đảm bảo sự tồn tại của DN, các nhà sản xuất buộc phải cân nhắc giữa việc giảm giá thành và lợi nhuận, giữa việc lắp ráp và nhập khẩu xe, xem điều nào hiệu quả hơn để chuyển mô hình hoạt động", ông Kiyoshi Teshima cho biết.
Hiện nay, nguồn xe nhập từ AESAN chỉ mới đến từ Thái Lan và Indonesia, nhưng sắp tới, xe nhập từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản sẽ tăng mạnh. Bởi, tuy không thuộc ASEAN nhưng ba nước này có ký hiệp định với ASEAN và lộ trình cắt giảm thuế đến năm 2018 cũng sẽ chỉ còn 5%.
Cái lý của nhập khẩu
Khi thuế suất còn 0% (đối với các nước ASEAN) và 5% (với các nước ký kết với ASEAN) thì việc xe nhập khẩu tràn về Việt Nam là điều không tránh khỏi. Để cạnh tranh, xe lắp ráp trong nước buộc phải giảm giá bán. Tuy nhiên, theo nhiều DN, điều này là không thể. Bởi hiện nay, thuế nhập khẩu linh kiện ở Việt Nam còn khá cao trong khi những nước khác trong khu vực như Thái Lan, Indonesia đã hưởng mức thuế 0.
Muốn hạ giá bán, DN phải có đủ nguồn linh kiện nội địa (công nghiệp phụ trợ), nhưng điều này đến nay vẫn chưa làm được. Đã vậy, gần 20 năm xây dựng nhưng ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam vẫn còn rất non trẻ. Mỗi năm cả thị trường chỉ tiêu thụ trên dưới 100.000 xe, trong đó có đến vài chục mẫu xe, mỗi mẫu chỉ sản xuất với số lượng nhỏ thì không thể giảm giá thành.
Khi lượng xe nhập khẩu tràn vào thì xe lắp ráp trong nước sẽ khó lòng cạnh tranh nổi. Ngay như Toyota, một số dòng xe đã đạt tỷ lệ nội địa 40% nhưng vẫn phải tính toán lại. Ông Yoshihisa Maruta, Tổng giám đốc Công ty Toyota Việt Nam thừa nhận, mặc dù đã tăng tỷ lệ nội địa lên gần 40% nhưng chi phí sản xuất ô tô của Toyota Việt Nam cao hơn so với tại Thái Lan và Indonesia. Với mức tiêu thụ thấp hơn nhiều so với Thái Lan và Indonesia, nên chi phí sản xuất cao hơn là điều hiển nhiên. Theo ông Yoshihisa Maruta, vấn đề lớn nhất để tăng lượng tiêu thụ là giá thành phải thấp. Mà muốn vậy, Việt Nam phải phát triển được ngành công nghiệp phụ trợ.
Trước khi kết thúc nhiệm kỳ tại Việt Nam vào tháng 3/2012, ông Akito Tachibana, nguyên Tổng giám đốc Toyota Việt Nam đã nhận định là đến năm 2018, nhiều nhất chỉ còn ba DN ô tô có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất tại Việt Nam, còn lại sẽ theo mô hình nhập khẩu, phân phối. Chưa biết đến lúc đó, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam có diễn ra đúng như ông Tachibana nhận định hay không, nhưng hiện tại, xe nhập khẩu từ các thành viên VAMA vẫn không ngừng tăng lên.

Khám phá hành trình M&A ngược dòng

Theo ông Chủ, sau gần ba năm mua lại toàn bộ cổ phần từ Bourbon Group, SBT đã trở thành công ty tiên phong trong ngành đường về quy trình, cách quản lý và trang thiết bị trên tổng số gần 40 nhà máy đường lớn nhỏ trên toàn quốc. Với mức doanh thu năm 2011 của SBT đạt gần 2.053 tỷ đồng, tăng 85,66%, LNST cả năm đạt 545,65 tỷ đồng, tăng 58,05% so với năm 2011.
Gần đây, thị trường tài chính xôn xao chuyện HD Bank mua lại 100% vốn của Công ty Tài chính Việt Nam Société Générale (SGVF), thuộc nhánh Société Générale Consumer Finance của Tập đoàn Tài chính Société Générale - Pháp. SGVF được cấp phép hoạt động tại Việt Nam từ năm 2007, đến nay đã có 1.100 nhân viên và mạng lưới hoạt động ở hơn 40 tỉnh - thành.
SGVF phát triển chủ yếu mảng dịch vụ tài chính cá nhân (với hơn 125.000 khách hàng) thông qua 300 đối tác và gần 800 điểm dịch vụ ở các cửa hàng xe máy cũng như điện máy trên cả nước. Thương vụ thâu tóm này dĩ nhiên sẽ giúp HD Bank mở rộng mạng lưới hoạt động và đối tượng phục vụ là nhóm khách hàng cá nhân.
Liên quan đến những hoạt động mua bán - sáp nhập (M&A), ông Volker Becker - Giám đốc dự án khối Ngân hàng đầu tư của Công ty Chứng khoán Bản Việt chia sẻ, một công ty thông thường có hai lựa chọn để phát triển, đó là tự phát triển và mua bán công ty.
Một khảo sát của tờ Financial Times thực hiện trên 160 lãnh đạo công ty cho thấy, 83% muốn tăng trưởng nội tại và 55% tin rằng tăng trưởng thông qua thâu tóm là một trong ba lựa chọn chiến lược quan trọng nhất của họ.
Không có chuỗi Victoria thứ hai
Sau khi bỏ ra 45 triệu USD mua lại chuỗi Victoria Hotels & Resorts, Thiên Minh Group đã tạo ra lợi nhuận tăng gấp đôi so với trước khi diễn ra sáp nhập.
Theo ông Volker Becker, lợi ích mỗi thương vụ thường thu được sau hai năm kể từ ngày ký kết M&A và 27% là những giao dịch có tăng trưởng cao, phần còn là thì thành công không cao. Lý do cho sự thành công được nhắc đến là bên mua phải khẳng định được mục đích mua.
Ngay như vụ Thiên Minh mua lại chuỗi khách sạn - khu nghỉ dưỡng 4 sao từ EEM Victoria, Hồng Kông (thuộc Tập đoàn Electricite et Eaux de Madagascar - EEM, Pháp), dù đã hơn hai năm kể từ ngày Thiên Minh chi 45 triệu USD cho thương vụ này nhưng "dư âm" của nó vẫn chưa dứt.
Ông Trần Trọng Kiên, Chủ tịch HĐQT Thiên Minh Group, cho biết, thông qua sự "mai mối" của một nhân vật (hiện đang làm việc tại Vietnam Investment Group), phía Thiên Minh đã tiếp cận được bên bán.
Theo đó, thương vụ bắt đầu từ năm 2009, đây cũng là thời điểm mà công ty mẹ EEM tại Pháp gặp khó khăn về tài chính và muốn thoái vốn khỏi EEM Hồng Kông.
Những dữ liệu về tình hình công ty thể hiện, từ giữa năm 2008, cổ phiếu của công ty "rớt điểm" và tình hình hoạt động của EEM sụt giảm. Cụ thể, tăng trưởng thu nhập trên mỗi cổ phiếu của họ giữa các năm (từ 2008 - 2012) đã giảm 252,82%. Đồng thời, doanh thu trong năm 2009 - 2010 giảm mạnh so với 2008.
Đại diện của EEM đã từng lên tiếng, cuộc đàm phán với Thiên Minh khá cân não và kéo dài (từ 2009 - 2011). Với 5 khách sạn - khu nghỉ dưỡng 4 sao tại các điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam và quyền quản lý một khu nghỉ dưỡng ở Campuchia, cái giá 45 triệu USD quả thực không cân xứng với tiềm năng của chuỗi lưu trú này. Hơn nữa, vụ mua bán được thực hiện ở Hồng Kông nên bên mua sẽ được hưởng chính sách thuế tốt nhất.
Quay trở lại khối tài sản mà Thiên Minh mua được, nếu so với mức vốn bỏ ra đầu tư một khách sạn 4 sao thời điểm 2011 rõ ràng đã tiết giảm không ít chi phí. Năm 1996, EEM nhận giấy phép xây dựng khách sạn 4 sao ở Sapa (Lào Cai) với vốn 5 triệu USD, đến khi bán, mức giá cho mỗi khách sạn bình quân dưới 8 triệu USD (khoảng 116 tỷ đồng).
Hiện, chi phí đầu tư cho khách sạn 4 sao ở Lào Cai được không ít chủ đầu tư đưa ra là không dưới 200 tỷ đồng. Đó là chưa nói đến thời gian lập quy hoạch, xin thủ tục đầu tư... sẽ "ngốn" không ít chi phí của DN. Về vấn đề này, ông Kiên cũng từng đề cập, thay vì xây khách sạn, việc mua lại, đặc biệt là mua dạng chuỗi sẽ tạo nhiều thuận lợi hơn cho DN.
Cũng theo đại diện Thiên Minh Group, sau khi mua, Công ty đã mất một năm để ổn định hoạt động của toàn chuỗi Victoria. Thông qua việc bơm thêm 2,5 triệu USD cho công suất phòng, nhân sự, công nghệ và marketing, hai năm kể từ thời điểm M&A, chuỗi Victoria Hotels & Resorts đã tạo ra lợi nhuận tăng gấp đôi so với trước khi diễn ra sáp nhập. Điều này ở khía cạnh nào đó không vượt ngoài dự tính của bên mua.
Tại sao? Trong chiến lược phát triển đến năm 2015, Thiên Minh muốn dẫn đầu trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, lưu trú và đặt phòng. Trước khi mua Victoria, Thiên Minh đang điều hành nhiều thương hiệu du lịch nổi tiếng như Intrepid, Buffalo Tours... cũng như một trong những mạng đặt phòng trực tuyến lớn nhất Việt Nam là Ivivu.
Thắng lớn thương vụ Bourbon
Sau gần ba năm mua lại toàn bộ cổ phần từ Bourbon Group, SBT "thống lĩnh" ngành đường với gần 40 nhà máy đường lớn nhỏ trên toàn quốc.
Giữa các nhà đầu tư Pháp và Việt Nam dường như đã có "duyên" trong các vụ sáp nhập. Có thể kể đến như vụ Masan mua Proconco hay một trong hai thương vụ thoái vốn gây sự chú ý đặc biệt vào cuối năm 2010 là của Tập đoàn Bourbon (Pháp) khi chuyển nhượng toàn bộ 68,52% vốn cổ phần của Công ty CP Bourbon Tây Ninh (tên giao dịch tiếng Pháp là Société de Bourbon Tây Ninh, mã chứng khoán: SBT) cho các cổ đông Việt Nam sau gần 15 năm gắn bó với thị trường Việt Nam với giá 34 triệu Euro.
Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là mức giá thoái vốn của Bourbon lại ngang mệnh giá, tương đương với khoản vốn góp của đối tác Pháp lúc ban đầu.
Đánh giá về vụ việc của Tập đoàn Bourbon, các chuyên gia chứng khoán cho hay, việc Tập đoàn Bourbon thoái vốn tại SBT là do tập đoàn này muốn chuyển hướng đầu tư sang thị trường khác, chứ không hẳn SBT làm ăn không hiệu quả.
Theo đó, lý do về việc thoái vốn cũng đã được phía cổ đông Pháp truyền thông trên thông cáo báo chí thời điểm đó cụ thể rằng, việc chuyển nhượng toàn bộ cổ phần tại SBT là nhằm tập trung vào cung ứng dịch vụ hàng hải dầu khí ngoài khơi theo yêu cầu của cổ đông công ty mẹ tại Pháp.
Tuy nhiên, một nguồn tin khác từ Hãng tin Tài chính Dow Jones Newswires lại cho hay, SBT bán thỏa thuận 97 triệu cổ phiếu cho Công ty Thành Thành Công và một số pháp nhân khác với giá bằng mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu, giá này thấp hơn 20% so với giá đang giao dịch trên sàn của SBT vào ngày 26/11/2010 là 12.000 đồng/cổ phiếu.
Đứng ở góc độ nhà điều hành Bourbon, ông Nguyễn Bá Chủ đã chia sẻ về những thành công của SBT kể từ khi hoàn tất thương vụ mua cổ phần của đối tác Pháp, sau quá trình tiếp nhận, SBT đã cải tổ tổng thể về cách điều hành, xây dựng lại tầm nhìn và định hướng rõ cho DN.
Theo ông Chủ, sau gần ba năm mua lại toàn bộ cổ phần từ Bourbon Group, SBT đã trở thành công ty tiên phong trong ngành đường về quy trình, cách quản lý và trang thiết bị trên tổng số gần 40 nhà máy đường lớn nhỏ trên toàn quốc. Với mức doanh thu năm 2011 của SBT đạt gần 2.053 tỷ đồng, tăng 85,66%, LNST cả năm đạt 545,65 tỷ đồng, tăng 58,05% so với năm 2011.
Và năm 2012, SBT lãi ròng 440 tỷ đồng, đã vượt 28,5% kế hoạch đặt ra. Điều này cho thấy cú "lội ngược dòng" của các cổ đông SBT là hoàn toàn đúng. Cùng với việc thâu tóm Bourbon với mức giá "hời" và các thương vụ đầu tư cổ phần vào các công ty mía đường khác như: Đường Biên Hòa, Khánh Hòa, Ninh Hòa..., Thành Thành Công đã gần như chiếm lĩnh thị trường đường trong nước.
SGP "hoán ngôi" cổ đông ngoại
Giấy Sài Gòn (SGP) về tay cổ đông nội địa sau khi sở hữu toàn bộ cổ phần của Tập đoàn Giấy Daio Paper.
Sau hơn hai năm hợp tác, mới đây, một cổ đông nội địa là ông Mai Hữu Tín đã thay thế hoàn toàn vị trí của Tập đoàn Giấy Daio Paper Corporation (Nhật) tại Công ty CP Giấy Sài Gòn (SGP) kể từ tháng 8/2013 với cổ phần sở hữu 42,3% (tương đương 416 tỷ đồng vốn điều lệ). Ông Cao Tiến Vị cùng hai quỹ đầu tư là Bridgehead, BVIM và các cổ đông còn lại sở hữu 57,7% (tương đương 570 tỷ đồng vốn điều lệ).
So với những thương vụ M&A tại Việt Nam, đây được xem là thương vụ "ngược dòng" hiếm hoi đầu tiên của ngành giấy ở thời hậu sáp nhập, khi có nhà đầu tư ngoại nhường vị trí cho cổ đông nội sau thời gian hợp tác không biến cố. Việc ra đi của Daio Paper cũng được giải quyết khá êm đẹp và để lại nhiều luyến tiếc cho cả hai phía Việt Nam và Nhật Bản.
Chia sẻ về vấn đề này, ông Vị từng cho biết, việc thoái vốn của đối tác Nhật xuất phát từ những biến động trong nội bộ của Daio Paper. Điều này đã chớm có dấu hiệu từ năm 2011 khi Mototaka Ikawa, nguyên Chủ tịch Tập đoàn Daio Paper bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì sử dụng hơn 140 triệu USD của Tập đoàn vào chứng khoán và đánh bạc.
Hơn nữa, từ cuối năm 2011 đến nay, tình hình kinh doanh không thuận lợi, khi cuối năm 2011, tập đoàn sản xuất giấy lớn thứ ba của Nhật Bản này tuyên bố lỗ 8 tỷ yên; đồng thời, cùng với nhóm các công ty điện tử, giá cổ phiếu của Daio Paper giảm mạnh.
Tuy thế, theo ông Vị, mặc dù thoái vốn khỏi SGP, nhưng phía Daio cũng rất khắt khe trong thẩm định đối tác tiếp cận khoản vốn mình để lại. "Ngoài chuyện Daio Paper đã hỗ trợ tài chính và chuyên môn giúp SGP vượt qua giai đoạn khó khăn, xét về khoảng thời gian hơn hai năm hợp tác với nhau, theo SGP, Daio vẫn là đối tác tốt, chuyên nghiệp" ông Vị nói.
Thành tích hợp tác được ghi nhận từ kết quả kinh doanh trong 7 tháng đầu năm 2013 được phía SGP tiết lộ đạt lợi nhuận trước thuế tăng gần 60 tỷ đồng so với cùng kỳ năm ngoái.
Với bối cảnh ngành giấy Việt Nam đang khó khăn, cộng hưởng những lùm xùm từ nội bộ cổ đông Nhật, nhưng với những gì SGP đạt được cũng cho thấy những tín hiệu khả quan từ sự hợp tác này.
Sau khi hoàn tất việc hoán đổi cổ đông, được biết, SGP dự kiến sẽ huy động vốn để tiếp tục đầu tư một chuyền xeo giấy tiêu dùng với công suất 28.000 tấn/năm nhằm khai thác lợi thế cơ sở hạ tầng sẵn có, nâng tổng công suất giấy tiêu dùng lên 74.440 tấn/năm.
"Năm 2014, chúng tôi ưu tiên cho việc chạy hết công suất của nhà máy Mỹ Xuân 1 và 2 với 48.360 tấn giấy tiêu dùng và 224.640 giấy công nghiệp. Chúng tôi sẽ huy động thêm 20% vốn điều lệ, tương đương với 200 tỷ đồng và dự kiến doanh thu của năm 2015 là 4.500 tỷ đồng", ông Vị chia sẻ.
Cho đến thời điểm này, dù những kế hoạch của SGP vẫn còn ở phía trước, nhưng với sự đồng thuận của các nhà đầu tư mới, thì kỳ vọng một tương lai sáng hơn cho SGP là điều hoàn toàn có thể.